Kỹ thuật dùng các diode đơn lẻ có các hạn chế về tốc độ nên giải pháp tăng số lượng tia ghi cùng lúc là giải pháp được lựa chọn ngày hôm nay. Đại diện cho các giải pháp này là các đầu ghi GLV,đầu ghi của Creo ( Kodak) và IDS laser của Heidelberg. Ngoại trừ IDS của Heidelberg dựa trên một công nghệ hoàn toàn mới thì các đầu ghi GLV và của Creo có nguyên tắc hoạt động tương tự chỉ khác cơ chế on-off laser. Sử dụng GLV (Grading Light Valve) có hai hãng là Agfa và Screen, sử dụng MOEMS (Micro-Opto-Electro-Mechanical Systems) có Creo-Kodak. Chúng ta cùng tìm hiểu nguyên lý hoạt động và ưu nhược điểm của từng kỹ thuật và sự khác biệt khi các hãng sản xuất máy ghi bản áp dụng vào thiết kế của mình.
Nguyên lý chung
Các hệ thống ghi bản nhiều tia ( multibeams) đều sử dụng một hay hai mảng diode hồng ngoại năng lượng cao 40W-50W bao gồm nhiều diode gộp lại ( 19 - 23 diode). Chùm tia laser được hướng tới bộ phân kênh tách thành nhiều tia, phổ biến hiện nay là 512 tia , các máy của Creo-Kodak có thể có số tia thấp hơn 240 -512 tia. Các tia laser tiếp tục được hướng tới bộ phận on-off laser light valve của CreoKodak hay GLV trước khi qua hệ thống thấu kính hội tụ chiếu lên bản kẽm.
Đầu ghi GLV của Agfa
Các cấu trúc như vậy có một ưu điểm là tốc độ ghi bản có thể đạt rất cao trong khi tốc độ vòng quay của trống thấp dưới 300 rpm. Không cần có thiết bị cân bằng động cũng như máy hoạt động ổn định hơn. Tốc độ tối đa ngày nay có thể đạt được là 48 bản/giờ với máy của Luescher. Một câu hỏi luôn được đặt ra đối với các thiết bị ghi bản nhiệt là nếu 1 diode hỏng thì chuyện gì sảy ra? Đối với các máy của CreoKodak thì các diode liên kế sẽ tăng công xuất để bù và máy hoạt động tiếp tục với tốc độ thấp hơn. Nếu diode thứ 3 hư thì phải thay.thế toàn bộ đầu ghi. Đối với máy của Screen PTR 8800 thì đầu ghi được thiết kế với hai nguồn laser độc lập nếu một trong hai nguồn có diode hư thì máy tắt nguồn đó và chỉ sử dụng nguồn còn lại. Tốc độ ghi giảm xuống. Theo các thông tin của Screen thì nguồn laser có thể được thay thế độc lập mà không thay thế cả đầu ghi.
GLV sự thật và huyền thoại
GLV là một kỹ thuật do Silicon light machines phát triển từ 1997 (www.siliconlight.com) phục vụ việc hiền thị độ phân giải cao ứng dụng trong truyền hình hay quảng cáo. Kỹ thuật này được Agfa và Screen ứng dụng vào ghi bản laser nhiệt từ năm 2004. Về bản chất nó cũng chỉ là một trong nhiều kỹ thuật để on-off laser, CreoKodak thật ra là người quan tâm kỹ thuật này đầu tiên nhưng quyết định không đi theo hướng này vì nhiều lý do. Tại Việt nam các máy ghi dùng GLV được quảng cáo như một kỹ thuật tiên tiến và hiện đại nhất hiện nay. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu nó là cái gì.

Hoạt động của GLV
GLV là một linh kiện trên đó có bố trí các dải siêu mảnh
(micro-ribbon) song song với nhau. GLV dùng cho ghi bản nhiệt có 6528
dải chia thành 1088 pixel bao gồm mỗi pixel 3 cặp active và inactive.(
nguyên thuỷ cho HDTV cần 1080 pixel ). Bề mặt của các dải này đóng vai
trò như các gương phản chiếu. Ở vị trí song song nó phản chiếu ánh sáng
và ở vị trí lõm xuống nó tán xạ ánh sáng (Diffraction) như vậy tia sáng
laser có thể được on-off tuỳ theo ghi hay không ghi. Đó là một cách giải
thích rất sơ lược về nguyên lý hoạt động, nhưng GLV có ưu điểm gì so
với các MOEMS khác ? Đó chính là tốc độ chuyển mạch ( trạng thái reflect
hay diffraction) rất nhanh. Một điều kiện tiên quyết cho việc nâng cao
tốc độ ghi bản. Tốc độ ghi cao sẽ phải trả giá bằng chất lượng điểm ghi
được đánh giá dựa trên spot size nhỏ nhất và độ ổn định của tia laser.
Nếu chúng ta để ý thì sẽ thấy Agfa có hai model máy dùng GLV là AvalonLF
thông thường và Avalon LF Elite. Với LF thông thường chúng ta chỉ ghi
đựơc tram tối đa 200 lpi nhưng với Elite thì tram tối đa là 340 lpi với
sublima. Điềm khác biệt trong cấu trúc của Agfa là các ribbon của GLV
được chia thành mấy cặp. Đối với Screen thì khi ghi Spekta ta phải bật
chế độ fine mode trong trình điều khiển và khi đó tốc độ ghi còn một nửa
!? Đặc điểm chung của các đầu ghi GLV là chất lượng ghi tram FM thấp.
Tới ngày nay Screen vẫn chưa đưa ra được RandotX là tram FM thế hệ 2 lấy
bản quyền của Harlequin giống Staccato của CreoKodak. Đầu ghi SquareSpot của CreoKodak

Đầu ghi SquareSpot của CreoKodak
Điểm ghi của laser vuông ? điều này mâu thuẫn với các quy tắc vật lý
vì ánh sáng chiếu xuống điểm sẽ có hình tròn hay hình elipse. Vậy làm
cách nào CreoKodak tạo ra được spot hình vuông ? Cách giải quyết của
Creo rất hay và sáng tạo đó là sử dụng độ phân giải bất đối xứng. Đầu
ghi SquareSpot có độ phân giải 10.000x 2400 dpi với spot size 2.5 x10
micron . Một điểm ghi của SquareSpot như vậy bao gồm 4 điểm ghi liền kế
và tạo ra một spot gần như vuông. Cách ghi này có ưu điểm là tram rất
sắc nét, độ ổn định cao. CreoKodak là nhà sản xuất duy nhất hiện nay có
thể ghi tram FM 10 micron với đầu ghi SquareSpot mặc dù việc ứng dụng
tram FM 10 micron còn là một dấu hỏi lớn. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề
tram FM trong một dịp khác. CreoKodak trong thời gian gần đây cũng chạy
theo phong trào tăng tốc độ máy ghi và khi đó chấp nhận hy sinh chất
lượng. Hiện tại trên thị trường dòng máy Trendsetter luôn có hai model
là dùng đầu ghi SquareSpot hay đầu ghi thường. Giá thành máy ghi với đầu
ghi thường thấp hơn so với đầu ghi SquareSpot. Các dòng máy Magnus mới
của CreoKodak cũng vậy, với hai model có và không có SquareSpot Autofocus
Ánh sáng của laser nhiệt có bước sóng trong vùng hồng ngoại 830 nm, việc lấy nét , chỉnh độ hội tụ focus của tia sáng có bước sóng dài là một công nghệ phức tạp, Heidelberg, Agfa, CreoKodak hiện thực được autofocus trên các đầu ghi của mình và điều này đem lại thuận tiên cho người sử dụng khi mà các bản kẽm có thể có bụi, bề mặt không tuyệt đối phẳng, máy vẫn ghi và cho chất lượng hình ảnh bảo đảm chất lượng. Khác với các đầu ghi của Screen với focus cố định nhiều khi các vùng out of focus trên bản kẽm chĩ được phát hiện khi đã đem lên máy in. Đầu ghi GLV trên các dòng máy PTR 8800 cũng chỉ có focus cố định.

Autofocus của Agfa
Làm lạnh laser

Cấu trúc đầu ghi GLV của Screen
Các đầu ghi GLV và của CreoKodak có nguồn sáng laser công xuất cao và hoạt động liên tục ngay khi bật máy ghi dù có ghi bản hay không, lượng nhiệt sinh ra cần phải được giải nhiệt . Chính vì thế các đầu ghi này cần có một bộ phận làm lạnh giữ cho nhiệt độ của nguồn laser và đầu ghi ổn định trong một khoảng xác định. Việc làm lạnh và giải nhiệt cho đầu ghi laser hoàn toàn khác biệt với việc làm lạnh và giữ ổn định nhiệt độ của trống ghi bản với mục đích khác là tạo môi trường ghi bản đồng nhất nâng cao độ chính xác chồng màu. Việc giải nhiệt và giữ ổn định môi trường làm việc của laser là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng tới tuổi thọ của đầu ghi đặc biệt là các đầu ghi GLV. Trong lĩnh vực này thì đầu ghi GLV của Screen có đòi hỏi quá khắt khe về môi trường làm việc. Theo catalogue của Screen thì nhiệt độ môi trường là 23 oC +/- 2 oC. Nếu nhiệt độ môi trường vượt ra ngoài khoảng trên thì máy báo lỗi. Thông số này gây khó cho người dùng ở Việt nam là một nước nhiệt đới nóng ẩm. Các đầu ghi khác có khoảng làm việc từ 23oC tới 29 hay 30 oC.
Tốc độ ghi bản
Cầu nối on-line với 2 máy hiện
Tốc độ ghi bản ngày nay đã có thễ đạt mức 50 bản/ giờ nhưng khi đó
xuất hiện câu hỏi về nhu cầu thật sự của tốc độ ghi và làm cách nào để
có thể đạt được tốc độ đó trong sản xuất thức tế. Chúng ta hãy lấy một
vi dụ máy PTR 8800Z có tốc độ ghi bản 43 bản/giờ: Đó là tốc độ ghi của
máy và máy có thể đạt được chỉ phụ thuộc vào độ nhạy của bản. Vấn đề
không đồng bộ ở đây chính là máy hiện bản. Để tiết kiệm , ở Việt nam
chúng ta thường đầu tư máy hiện khổ 85 cm hiện bản theo chiều dọc. Với
bản Kodak chúng ta cần trên dưới 2 phút để hiện bản khổ 79x103 vậy tối
đa máy hiện này chỉ đáp ứng 30 bản/giờ. Nếu nối on-line với máy ghi thì
khi máy hiện chưa báo ready thì máy ghi không thể đẩy bản đã ghi ra và
nạp bản mới được. Tốc độ 43 bản giờ không bao giờ đạt được do máy hiện.
Với một máy tốc độ cao như máy PTR 8800Z chúng ta cần có 2 máy hiện bản
chạy song song nếu muốn thật sự đạt 43 bản giờ. Một yếu tố khác nữa là dữ liệu ghi bản. Nếu nối trực tiếp RIP với máy ghi bản thì không bao giờ có thể đạt được tốc độ tối đa vì một điều rất dễ hiểu là cần có thời gian tạo preview, preflight, bình trang, rip vv. Máy không thể ghi liên tục. Với một máy ghi tốc độ cao như thế chúng ta sẽ phải tách RIP ra khỏi máy ghi và dùng nhiều RIP off-line để cung cấp dữ liệu tiff-b cho máy ghi.
Kết luận
Máy ghi nào cũng làm tốt công việc của mình là ghi bản kẽm, điều chúng ta cần quan tâm là sự hiểu biết về nguyên lý hoạt động, các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng. Chính bằng sự hiểu biết chúng ta sẽ khai thác tối đa tính năng của máy và tạo ra những sản phẩm tốt nhất. Một điều quan trọng nữa là đầu ghi hay laser chỉ là một bộ phận trong hàng ngàn bộ phận cấu thành nên máy ghi. Các bộ phận khác hư hỏng cũng dẫn đến chi phí lớn và ngưng trệ sản xuất. Chế độ bảo hành và sự ổn định của máy ghi trong vận hành là một tiêu chí quan trọng nhất khi đầu tư thiết bị.
Kỹ thuật ghi bản trực tiếp từ máy tính-CtP:
Ghi bản PS bằng đèn UV – CtcP
Người viết: Nguyễn Thái Dũng 07/11/2007

Máy ghi bản CtcP 710f2 BasysPrint
Ngành in Việt Nam đang trong bước chuyển mình mạnh mẽ trong công cuộc
đổi mới thiết bị và công nghệ. Chuyển đổi từ công nghệ cũ dùng film và
phơi bản sang công nghệ mới ghi bản trực tiếp từ máy tính đang là một
quá trình diễn ra mạnh mẽ trên cả hai đầu đất nước. Nếu tính từ mốc thời
gian máy ghi bản đầu tiên vào việt nam đến nay thì chúng ta đã đi qua
một quãng đường gần 5 năm. Trong thời gian đó , gần như tất cả các công
nghệ ghi bản trực tiếp từ máy tính ( sau đây sẽ ghi tắt CtP) đã có mặt ở
Việt nam. Đã đến lúc chúng ta nhìn lại và phân tích điểm mạnh điểm yếu
của từng công nghệ Quá trình phát triển của công nghệ CtP là một quá trình phát triển song hành của công nghệ chế tạo bản in và kỹ thuật ứng dụng laser. Bất cứ quá trình phát triển nào cũng có thời gian khởi điểm khó khăn và giá thành đắt hay nói cách khác là chỉ phù hợp với một số đối tượng. Bản in PS là một loại bản được ứng dụng rộng rãi trong ngành in với giá thành rẻ và vô số nhà cung cấp. Từ đó nảy sinh nhu cầu ghi bản PS trực tiếp từ máy tính. Khi đó gía thành rẻ là một bảo đảm của sự thành công.
Có nhiều hãng đi theo con đường này và chỉ có duy nhất BasysPrint có sản phẩm cung cấp ra thị trường. Esko-Graphics với máy Expresso có triển lãm ở Drupa 2004 nhưng sau đó không đưa ra thị trường và rút khỏi lĩnh vực sản xuất máy ghi bản CtP cho in Offset. Máy ghi bản này dùng đèn UV. Tại Drupa 2004 còn có AlfaQuest và Luescher là hai nhà cung cấp máy CtP dùng laser có bước sóng trong vùng violet 380-410 nm có thể ghi một số loại bản PS có độ nhạy sáng cao. Nhưng khi đó giá bản PS cũng tương đương hay thậm chí cao hơn bản photopolymer hay bản nhiệt. Sau đây chúng ta tập trung phân tích máy ghi bản của BasysPrint dùng để ghi kẽm PS. Máy này đã có mặt ở Việt nam
Nguyên lý hoạt động:

Nguyên lý hoạt động:
Ánh sáng từ đèn UV công suất lớn ( tương tự đèn UV dùng trong các máy
phơi bản thông thường) được một hệ thống quang học dẫn đến linh kiện
DMD (Digital Mirror Device), đây là một linh kiện được Texas Instruments
phát triển cho các máy chiếu Projector hay bảng quảng cáo ngoài trời.
Đây là linh kiện đóng vai trò quan trọng nhất trong việc ghi bản. Nó là
một bản mạch có chứa khoảng 1.000.000 vi gương trên bề mặt. Các vi gương
này sẽ phản chiếu ánh sáng UV xuống bản kẽm qua hệ thống thấu kính hay
hướng ánh sáng ra ngoài khi không ghi. Dữ liệu 0-1 ghi không ghi được
điều khiển từ máy tính RIP hay Tiff Downloader. Tại một thời điểm hệ
thống này ghi được một diện tích khoảng 1cm2 ( xem hình minh họa ) hết ô
này đầu ghi sẽ di chuyển sang ghi ô khác giống như một máy ghi plotter .
Như vậy mỗi ô cần một khoảng thời gian tối thiểu được lộ sáng , chúng
ta cứ hình dung như ghi phơi bản bằng đèn UV trong các máy phơi thông
thường, nếu chúng ta ghi bản positive thì toàn bộ bề mặt của bản phải
được lộ sáng và đầu ghi phải đi qua hết diện tích bản. Điều này dẫn đến
tốc độ ghi nói chung là không chấp nhận được - khoảng 4 bản khổ 102
trong một giờ ( còn tuỳ thuộc vào độ nhạy của bản và tuổi của đèn) Chính vì lý do đó BasysPrint khuyên nên dùng bản Negative, khi đó chỉ các phần tử in mới cần lộ sáng. Tốc độ phụ thuộc vào phần trăm độ phủ bề mặt của của phần tử in. Cứ cho là khoảng 50% chúng ta sẽ có tốc độ lên gấp đôi so với bản positive. Trong thực tế để tăng tốc độ người dùng BasysPrint thường đặt chế độ phơi non ( thời gian ngắn ) và hậu quả là độ bền bản giảm xuống vì bản negative phần tử in là phần tử được lộ sáng. Nếu không được lộ sáng đầy đủ phản ứng quang hóa điễn ra không hoàn toàn và độ bền của phần tử in giảm xuống khi tiếp xúc hóa chất, chà xát cơ học trên máy in.
DMD
Linh kiện DMD
Như đã trình bày DMD (digital mirror device) là một linh kiện của
Texas Intruments phát triển cho các máy chiếu projector hay bảng quảng
cáo ngoài trời. Nó là một tập hợp các vi gương có thể đổi hướng. Khi
dùng cho máy ghi bản Basysprint thì ánh sáng chiếu lên nó là ánh sáng UV
có cường độ lớn hơn gấp nhiều lần các nguồn ánh sáng RGB mà nó được
thiết kế để dùng cho mục đích này. Ánh sáng UV nhanh chóng hủy hoại tính
chất phản xạ của vi gương và làm lão hóa các khớp nối. Kết quả là trong
cả triệu vi gương sẽ có càng nhiều các vi gương không hoạt động . Kết
quả trên bản negative sẽ có càng nhiều các hạt lấm tấm. Khi nhiều tới
mức không thể chấp nhận được thì phải thay DMD, giá thành không hề rẻ.
Trung bình 1,5 tới 2 năm thì phải thay DMD. Mặc dù trên DMD là cả tirệu
vi gương tức là tại một thời điểm chúng ta ghi cả triệu điểm ảnh nhưng
nó chỉ tương ứng với khoảng 1cm2
vi gương
Nhằm tăng diện tích một lần ghi BasysPrint đã lựa chọn độ phân giải
1500 dpi cho các máy 710 fs dùng cho in chất lượng cao. Chất lượng ghi
bản thì chấp nhận được vì còn phụ thuộc vào chất lượng của bản nhưng có
một khó khăn nảy sinh là độ phân giải 1500 dpi không có trên tất cả các
RIP có nguồn gốc Adobe. Người dùng chỉ có một lựa chọn duy nhất là RIP
Harlequin. Để tăng tốc độ BasysPrint đưa ra các kiểu máy trang bị hai
đầu ghi với ký hiệu f2. Khi đó hai đầu ghi hoạt động song song và mỗi
đầu ghi ghi phần bản của mình. Các máy ghi HS đời cũ thì đầu ghi 1 ghi
bên trái bản và đầu ghi 2 ghi bên phải bản. Nhưng các máy ghi mới fs thì
lại có một bố trí theo tôi là bất hợp lý cho những người không dùng
thiết bị nạp kẽm tự động. Đầu ghi 1 ghi nửa dưới phía kẹp nhíp và đầu
ghi 2 ghi phía đuôi bản. Ta có thể hình dung việc phân bố công việc giữa
các đầu ghi là không cân bằng và chất lượng ghi khác nhau giữa các đầu
ghi khó có thể bù đắp bằng việc chỉnh mực trên máy in. Đèn UV
Đèn UV là loại đèn thông thường dùng trong các máy phơi bản. Khi sử dụng cho máy ghi CtcP thì thời gian sử dụng bị rút ngắn đáng kể . Trên các máy đời cũ thời hạn sử dụng là 400 giờ, các máy fs là 2000 giờ. Điều đáng lưu ý là mỗi khi bật máy ghi bản lên là đèn sáng và thời gian được tính. Lý do rất đơn giản là nguồn sáng UV cần có thời gian ổn định trước khi đạt mức công suất cần thiết. Nếu tắt máy rồi bật lại ta phải đợi 30-45 phút trước khi máy báo ready và điều đáng buồn là mỗi lần bật máy hệ thống sẽ tự động trừ 3 giờ vào số giờ còn lại của đèn. Nguồn sáng UV của đèn hoàn toàn không ổn định và công suất suy giảm theo thời gian. VD khi mới thay đèn ta cần 4-5 phút cho một bản negative thì khi tuổi thọ của đèn về cuối thì cũng bản đó ta cần thời gian gấp đôi tức là 7-8 phút. Cũng do tính chất không ổn định của của nguồn sáng UV mà việc cân chỉnh máy phải diễn ra thường xuyên. Theo khuyến cáo thì nên làm mỗi ngày một lần nếu ta muốn có chất lượng đồng nhất.
Đèn UV tiêu thụ công suất lớn và do nhiệt của nó sinh ra nên hệ thống quang học phải được làm lạnh.Nếu thiết bị làm lạnh trục trặc thì hệ quả kéo theo là các thấu kính sẽ nứt vỡ và phải thay thế. Lượng điện năng tiêu thụ cũng là một yếu tố phải tính đến trong việc tính toán giá thành sản xuất.
Kết luận
Máy ghi bản CtcP của BasysPrint là một máy ghi có dùng những công nghệ đột phá nhưng không có tính ổn định. Ưu điểm sử dụng bản kẽm rẻ tiền nhanh chóng bị thay thế bởi bản thân giá thành máy ghi và chi phí sản xuất khi thay thế DMD hay các linh kịên khác. Điện năng, đèn UV, cân chỉnh máy, tốc độ ghi là những yếu tố làm cho máy ghi này không phổ biến trên thế giới. Hiện nay hãng BasysPrint đã bán cho Strober và dòng máy này còn tiếp tục được sản xuất hay không là một câu hỏi.
Kỹ thuật ghi bản trực tiếp từ máy tính-CtP:
Ghi bản với laser hồng ngoại và bản nhiệt
Người viết: Nguyễn Thái Dũng 09/11/2007
Tổng quát

Máy ghi bản nhiệt PTR 8000/8600
Do đặc thù của bản nhiệt cần một mức năng lượng rất lớn để có thể khởi phát quá trình polymere hóa nên gần như 100% các máy ghi bản nhiệt dùng cấu trúc ghi trống ngoại ( ngoại trừ Luescher với cấu trúc lòng ống đặc biệt). Khoảng cách từ laser tới bề mặt bản là tối thiểu và tránh được hao phí năng lượng. Mặt khác do cần một mức năng lượng rất cao so với film hay bản Photopolymere ( bản Kodak cần 130 microjoule /cm2) mà tất cả các máy ghi bản nhiệt đều áp dụng kỹ thuật ghi nhiều tia laser để tăng tốc độ. Chính tại điểm này chúng ta có các kỹ thuật khác nhau và phạm vi bài viết này sẽ tập trung phân tích các mặt mạnh mặt yếu của từng kỹ thuật.

Ghi bản với trống ngoại
Kỹ thuật ghi bản CtP có thể tóm gọn lại trong trong một chủ đề là
cấu trúc đầu ghi laser và làm cách nào để on-off laser tương ứng với ghi
hay không ghi ( giá trị nhị phân 0-1) một điểm laser spot. Nhiều điểm
laser spot sẽ tạo thành một điểm tram. Các nguồn sáng laser nhiệt được
dùng chủ yếu hiện nay là laser diode hay laser bán dẫn có bước sóng 830
nm và hoạt động ở một trong hai chế độ liên tục hay xung, nói một cách
dễ hiểu là diode phát sáng liên tục và ta dùng một thiết bị ngoài để
ngắt hoăc cho ánh sáng đi qua hay ta bật tắt trực tiếp diode để bật tắt
laser. Nguyên lý ghi bản CtP
Tại sao là phương pháp này mà không phải là phương pháp kia ?Điều này có ảnh hưởng gì tới người sử dụng ? Lý do là các nguốn laser công xuất lớn cần có thời gian trễ mới đạt mức năng lượng ổn định trong khi tần số on-off laser là cực lớn khi ghi bản. Vì vậy các nguồn laser công xuất lớn đều cần có thiết bị ngoài để on-off laser. Các nguồn laser công xuất thấp thì có thể on-off trực tiếp với tần số cao. Thời gian on của laser có liên quan đến tuổi thọ. Với các laser công xuất lớn khi bật máy ghi lên là laser bật ( có thể có chế độ standby nhưng vẫn tiêu thụ công xuất lớn) thời gian được tính. Các nguồn laser công xuất thấp thì chỉ khi nào ghi bản laser mới bật trong một khoảng thời gian rất ngắn, tuổi thọ của nó có thể coi là vô tận. Một trong những chủ đề tranh luận bất tận giữa ghi bản nhiệt và ghi bản photopolymere là tuổi thọ laser. Để dễ hình dung ta có so sánh laser nhiệt có mức công xuất 1W/ 1 diode VD laser của máy ghi bản Platerite 8000 II so sánh với 60 mW của máy ghi bản Luxel 9600.
Cấu trúc đầu ghi dùng diode độc lập.
Đây là một trong những cấu trúc đầu ghi có từ những ngày đầu tiên với các model máy Platerite 8000/8600 của Screen hay Lotem của Scitex. với số lượng diode từ 24-64 diode. (Xem hình nguyên lý ghi bản với diode độc lập.) Các diode này thông thường có công xuất lớn 1W trừ PTR 8600 có công suất 500 mW một diode. để on-off laser cần có bộ phận acousto-optic modulator AOM (tham khảo Wiki ) để on-off laser, tia laser được dẫn bằng cáp quang tới hệ thống quang học lấy nét focus rồi ghi lên bản.
Cấu trúc này còn có một hạn chế là focus cố định và lấy nét nông. (giống như khi chụp ảnh chúng ta làm hiệu ứng DOF xóa phông). Máy focus chính xác trên bề mặt bản khi có bất cứ sự thay đổi nhỏ nào của độ dày bản chúng ta sẽ có vùng ghi out of focus và bản đó phải bỏ. Hiện tượng này thường gặp khi làm vệ sinh trống không kỹ, có bụi trên bề mặt trống hay bề mặt bản không tuyệt đổi phẳng.
Máy ghi bản Scitex Lotem
Cấu trúc đầu ghi của PTR 8000/8600 chia làm hai băng diode với mỗi băng 16 hay 32 diode tương ứng. khi có một diode hư thì hệ thống tự động tắt toàn bộ một băng và hoạt động với một băng duy nhất còn lại. Nếu diode của băng này lại hư tiếp thì sao ? Chính ở đây là điểm mạnh của cấu trúc này, chúng ta nhớ là vẫn còn 15 hay 31 diode còn tốt và có thể hoán đổi sang băng này để tiếp tục sản xuất với tốc độ thấp hơn trong khi chờ đợi diode thay thế. Ưu điểm của cấu trúc này là có thể thay thế diode đơn lẻ và dễ dàng giá thành một diode thấp. Chỉ có một điều mà người ta thường hay không nói đó là một năm thì phải thay bao nhiêu diode !? Các con số thống kê cho thấy trong điều kiện sản xuất với sản lượng lớn thì trung bình 1 năm phải thay 3-4 diode. Các cơ sở dùng PTR và Heidelberg Topsetter ( OEM của Screen) tại Việt nam cũng có con số tương tự.
Vậy khi nào máy báo diode hư? Khi bắt đầu quá trình ghi bản máy ghi sẽ thực hiện việc kiềm tra năng lượng laser ( có thể thấy quá trình này trên màn hình điều khiển của PTR khi ghi bản đầu tiên) nó kéo dài khoảng 1-2 phút. Khi đó máy kiểm tra năng lượng laser phát ra của từng diode nếu thiếu máy tự động nâng công suất lên mức cần thiết. Trong trường hợp vượt ngưỡng thì máy báo diode hư và hoạt động chỉ với một băng và một nửa tốc độ. Có nhiều nguyên nhân làm suy giảm công xuất laser như tuổi thọ, bản cần có mức năng lượng lớn.hay một nguyên nhân rất đơn giản là bề mặt thấu kính bị bụi mờ làm giảm lượng ánh sáng đi qua và máy phải nâng công xuất laser lên. Tất cả những điều trên làm cho việc thay thế diode là tương đối thường xuyên.
Cấu trúc đầu ghi với diode độc lập
Do số lượng diode là giới hạn ( tối đa là 64 diode ) và là diode công xuất lớn nên muốn có tốc độ ghi bản cao nên tốc độ quay của trống cũng phải cao. Trên các máy PTR là 900 rmp ( vòng phút), bản có kích thưóc khác nhau và không phủ hết bề mặt ống nên bắt buộc phải có cơ chế autobalance. Máy di chuyển các đối trọng đến vị trí thích hợp ở hai đầu ống. Nếu hệ số autobalance không chính xác thì khi ghi bản máy rất rung và ảnh hưởng tới chất lượng. Tất cả các máy ghi bản khác có tốc độ vòng quay trống thấp dưới 300 rpm không cần có cân bằng động và đó là một ưu điểm nhưng trong thực tế tại việt nam khi mua sắm thiết bị có cơ sở coi có cân bằng động là điều kiện tiên quyết !? Có nghĩa là họ chỉ muốn mua PTR ?
Nhiệt độ hay điều kiện môi trường cho máy hoạt động cũng là một yếu tố đòi hỏi phải quan tâm. Đầu ghi không có bộ phận làm lạnh và bộ phận ổn định nhiệt cho trống ghi nên điều kiện môi trường cũng đòi hỏi tương đối khắt khe. Đối với máy PTR hay Heidelberg Topsetter là nhiệt độ phòng phải dưới 27 độ C nếu vượt quá máy báo lỗi.
Kết luận
Đầu ghi với các diode đơn lẻ có ưu điểm là thay thế dễ dàng, có thể đạt tốc độ tương đối cao > 20 bản/ giờ. Nhược điểm focus cố định, tần suất thay diode lớn, cần có autobalance, điều kiện môi trường khắt khe.
CTP-Tools: Công cụ kiểm tra chất lượng bản in CTP
Người viết: Trần Duy Hải 01/11/2007
Hiện nay, nhiều nhà in ở Việt Nam đã đầu tư hệ thống chế bản CTP. Sử dụng công cụ, phương pháp nào để kiểm tra, đánh giá chất lượng bản in CTP. Có thể kiểm tra, đánh giá chất lượng ghi bản CTP dễ dàng bằng mắt thường cho cả tram in AM truyền thống và tram in tiên tiến FM, XM (Hybrid) mà chưa cần dùng đến các thiết bị đo hiện đại được không.
Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu CTP-Tools phiên bản 2.0 (CTP-Tools version 2.0) của Heidelberg.
I. Mục đích, yêu cầu & phạm vi áp dụng CTP-Tools.
Như chúng ta biết, chất lượng tờ in phụ thuộc rất nhiều yếu tố: bản in, giấy in, các điều kiện sản xuất trên máy in… Tất cả các yếu tố trên cần phải được kiểm soát, trong đó điều kiện đầu tiên, tiên quyết, là chất lượng bản in phải đảm bảo các thông số theo các tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng (VD: theo các tiêu chuẩn quốc tế ISO 12647 hay theo tiêu chuẩn kỹ thuật nội bộ).
Trong quá trình chế bản, khi điều kiện môi trường (nhiệt độ, độ ẩm…) đã tối ưu để giảm thiểu các tác động ảnh hưởng xấu đến chất lượng bản in và mặc dù chỉ dùng một loại kẽm của một nhà cung cấp, thì chất lượng bản in cũng có thể thay đổi theo từng lô kẽm xuất xưởng và thay đổi do các điều kiện ghi và hiện bản không ổn định (hóa chất và nhiệt độ hiện bản thay đổi các tính chất hóa lý, năng lượng ghi bản giảm do đầu ghi bị bụi bẩn…). Tóm lại, để bảo đảm chất lượng bản in CTP luôn ổn định cần có công cụ đánh giá chất lượng và sử dụng thường trực cho mọi bản được tạo ra.
CTP-tools là dải kiểm tra chất lượng bản in (the plate control strips) dạng kỹ thuật số được Heidelberg thiết kế dùng trong các chu trình chế bản điện tử (PostScript/PDF workflow). Đây là một công cụ giúp đảm bảo chất lượng chế bản CTP khi sử dụng các hệ thống chế bản do Heidelberg cung cấp. Điều này thực hiện bằng cách đặt dải kiểm tra bản in CTP-Tools cho từng mẫu khuôn in (plate template) ở ngoài vùng chỉ thị giấy in khi bình trang điện tử như các dấu ký hiệu (marks) bình trang khác.
Lưu ý : Các dải kiểm tra CTP-tools đặt thường trực cho từng bản in nhưng không nằm ở vị trí thiết bị quét bản kẽm (EPS) cần xác lập điểm "0" (zero) khi quét bản.
II. Các dạng dữ liệu của CTP-tools.
Dải kiểm tra bản CTP có rất nhiều biến thể, phù hợp cho từng loại bản CTP khác nhau.
Ngoại trừ các dải kiểm tra bản dùng chung (universal plate control strips) có thể đánh giá chất lượng của mọi loại bản in (đánh giá các tính chất, yêu cầu thông thường), Heidelberg đưa ra các dải kiểm tra đặc biệt, thiết kế riêng cho từng loại bản và máy ghi, muốn dùng được cần phải mua thiết bị bảo vệ (dongle-protected device) và mã khóa phần mềm (lisenced-software key). Nếu không có những thứ này, khi thực hiện tram hóa dữ liệu (RIPing), sẽ nhận được thông báo dải kiểm tra bản không có tác dụng. Dữ liệu ghi bản vẫn được tram hóa nhưng dải kiểm tra không hiện ra trên bản như mong muốn mà hiện lên thông báo :
“plate control strips only displayed with appropriate Heidelberg dongle option being enabled”.
Dải kiểm tra bản CTP của Heidelberg hỗ trợ kiểm tra tới 12 bản tách màu (4 process colors + 8 spot colors). Kích thước dải kiểm tra là 360mm x 12mm.
- 4 màu cơ bản (Process colors) có ký hiệu như thông thường: Cyan - C, Magenta - M, Yellow - Y, Black - K.
- 8 màu pha (spot colors) có các ký hiệu : X, Y, U, V, S1, S2, S3, S4. Việc gán (mapping) các màu này là tự động hoặc có thể thực hiện theo ý muốn từ các phần mềm ứng dụng.
Có 4 dạng dữ liệu cho mỗi loại dải kiểm tra bản :
• Plc2.0 “name”_12C.eps
Dải kiểm tra dạng này dùng cho chu trình chế bản với dữ liệu PostScript tách màu trên RIP (composite PostScript workflow). Chúng được thiết kế để dùng trong phần mềm bình trang SignaStation 9.0 của Heidelberg hoặc phần mềm bình trang độc lập (third-party imposition software) cũng như bình trang trực tiếp từ ứng dụng như QuarkXpress.
Nếu dùng SignaStation 9.0 để bình trang cho chu trình chế bản “Composite PDF Workflow” thì cũng lấy dải kiểm tra dạng này.
Plc2.0 “name”_BW.EPS
Dải kiểm tra dạng này được thiết kế cho phần mềm bình trang SignaStation 9.0 làm việc trong chu trình chế bản với mọi dạng dữ liệu chế bản đã tách màu trước.
• Plc2.0 "name”_12C.PDF
Dải kiểm tra dạng này dùng cho phần mềm bình trang Prinect SignaStation (không dùng cho SignaStation 9.0) và các phần mềm bình trang độc lập trong chu trình chế bản với dữ liệu là PDF tách màu trên RIP (Composite PDF Workflow).
Ở các phiên bản trước (CTP-Tools version <2.0), phần mở rộng của định dạng dữ liệu dải kiểm tra này là “main”.
• Plc2.0 “name”_12C.pre
Dải kiểm tra dạng này dùng cho phần mềm bình trang Prinect SignaStation (không dùng cho SignaStation 9.0) và các phần mềm bình trang độc lập với dữ liệu chế bản là PDF hay Delta List đã tách màu trước RIP (separated PDF workflow & separated Delta List workflow).
II. Các chức năng cụ thể của CTP-Tools
Như đã trình bày, chức năng chính của CTP-Tools là kiểm tra chất lượng và đánh giá độ ổn định chất lượng ghi & hiện bản CTP với độ chính xác cao bằng quan sát. Sau đây, chúng ta tìm hiểu từng loại dải kiểm tra, giải thích các dấu ký hiệu trong các ô kiểm tra chức năng, cách sử dụng chúng để đánh giá chất lượng bản in CTP.
1) Các dải kiểm tra bản dùng chung
Các dải kiểm tra này được thiết kế để có thể làm việc cho cả các thiết bị RIP không do Heidelbeg sản xuất (third-party RIPs). Những gì có thể gây nên những sự cố không phù hợp sẽ được bỏ đi. Để sử dụng chúng, không cần thiết bị mã khóa bảo vệ (dongle-protected) và không cần thay đổi cho phù hợp (customized) với các thiết bị ghi cụ thể hay các loại bản in khác nhau.
Hình 1: Dải kiểm tra bản in CTP-Tools
• Sắp xếp các thành phần của dải kiểm tra (Plate control Strip Layout ):
Dải kiểm tra gồm rất nhiều phần tử chức năng, được bố trí từ trái qua phải như sau.
- Panel đầu tiên cho biết thông tin bản in được ghi trên máy nào, tên loại bản kẽm sử dụng, ký hiệu bản tách màu :
Hình 2: Panel chức năng đầu tiên của CTP-Tools.
- Panel tiếp theo là một trong những panel chức năng quan trọng nhất giúp chúng ta đánh giá chất lượng ghi & hiện bản.
Hình 3: Panel kiểm soát chất lượng và độ ổn định ghi, hiện bản.
Panel này bao gồm một dải tầng thứ dùng để so sánh (comparison scale) gồm nhiều ô tram thô kích thước hình học 8 mm, có bước chuyển tông 2,5%, và dải tram mịn (fine screen) có tông đồng nhất dùng để đánh giá sự thay đổi tầng thứ tram vùng mid-tone khi điều kiện ghi và hiện bản thay đổi.
Khi thiết bị ghi bản đảm bảo yêu cầu ghi tram tuyến tính và điều kiện hiện bản được kiểm soát tốt, quan sát bằng mắt thường ta thấy các ô tam giác tram mịn nửa bên trái của panel sẽ có tông đậm hơn các ô tram thô dải so sánh, còn các ô tam giác nửa bên phải sẽ nhạt hơn. Vị trí tối ưu là ô tam giác tram mịn và ô tram thô dải so sánh cùng tông (match) ở chính giữa panel :
Hình 4: Vùng làm việc tối ưu
Để có hiệu ứng như trên là do cấu trúc tram của 2 dải tram này:Dải tram mịn có cấu trúc tram hình vuông. Diện tích che phủ mỗi điểm tram là 3x3 pixels trong ô tram 4x4 pixel.
Ô tram thô có cấu trúc tram đường kẻ (dạng zigzag hoặc kẻ thẳng ngang, kẻ thẳng đứng). Các ô tram kế tiếp nhau có trị số tông thay đổi 2,5% (tăng dần từ trái qua phải) bằng cách thay đổi bề rộng đường kẻ tram. Ô tram thô ngoài cùng bên trái có trị số tông nhỏ nhất gồm các đường tram có bề rộng 7 pixels gấp hơn hai lần kích thước hạt tram mịn.
Hình 5: Minh họa cấu trúc ô tram thô và dải tram mịn.
Rõ ràng, khi điều kiện ghi hay hiện bản thay đổi thì trị số tầng thứ
(%) của dải tram mịn sẽ thay đổi nhiều hơn hơn dải tram thô. Nếu như
thay đổi này nhỏ thì phần tram thô coi như không bị ảnh hưởng (quan sát
không thấy hề hấn gì), trong khi dải tram mịn thay đổi rõ rệt. Kết quả
là vị trí cùng tông (match) của ô tam giác (dải tram mịn) và dải tram so
sánh sẽ dịch chuyển tương ứng tới một ô tram thô nào đó. Nếu xảy ra
bay tram (kích thước che phủ hạt tram trên bản giảm), ô tam giác sẽ nhạt
đi và cùng tông với một ô tram thô phía bên trái của dải so sánh, và
ngược lại.Chất lượng ghi và hiện bản được coi là ổn định, chấp nhận được khi quan sát mắt thường thấy ô tam giác cùng tông với dải tram so sánh trong giới hạn 3 ô tram thô nằm giữa panel (kích thước 2,4 cm) khi thực hiện ghi tram tuyến tính.
Như đã trình bày ở trên, mỗi ô tram thô kế tiếp có trị số tầng thứ tram thay đổi 2,5% nên dựa vào sự dịch chuyển vị trí cùng tông của ô tam giác là bao nhiêu ô và so sánh với khi điều kiện làm việc tối ưu ta có thể định lượng được tầng thứ tram trên bản thay đổi bao nhiêu phần trăm. Thực tế kiểm nghiệm bằng thiết bị đo cho thấy khi ô tam giác dịch sang một ô tram thô kế tiếp, trị số tầng thứ tram thay đổi 1% với tram AM có với tần số tram xuất là 60 l/cm (150lpi) hoặc thay đổi 3% với tram FM có kích thước tram in nhỏ nhất 20 micron (300 lpi).
- 5 panel kế tiếp được thiết kế đặc biệt để đánh giá chất lượng ghi bản theo các cách khác nhau:
Hình 6: Các ô chức năng đánh giá chất lượng ghi bản.
Panel đầu tiên đánh giá hình dạng điểm ảnh ghi được của tia laser
(pixel geometry) gồm 4 ô vuông dạng tram đường kẻ (kẻ đứng, kẻ ngang, kẻ
chéo 45 độ và kẻ chéo 135 độ) .
Hình 7: Ô kiểm tra ghi bản đối xứng
Nếu hình dạng pixel cân xứng theo 2 chiều quét x, y thì cả 4 ô tram
cùng trị số tông quang học (optical tonal value). Nếu 4 ô tram có trị số
tông khác nhau thì việc ghi là không đối xứng.Trong thực tế, hình dạng pixel mất đối xứng nhẹ có thể chấp nhận. Tuy nhiên, đây cũng chính là một nguyên nhân gây nên sự cố tram in bị nhòe hoặc tạo bóng khi in.
Panel thứ hai đánh giá khả năng ghi tram tuyến tính của hệ thống ghi bản tại điểm tram 50% (mid-tone), bao gồm 4 ô tram (checkerboard patterns) có hạt tram dạng hình vuông cùng trị số tông nhưng kích thước khác nhau (1x1, 2x2, 4x4 và 8x8 pixels) :
Hình 8: Các ô kiểm tra ghi tram tuyến tính của hệ thống ghi bản.
Để kiểm tra & đánh giá chính xác mức độ ghi tram tuyến tính, ta phải dùng kính lúp (độ phóng đại 50 lần trở lên). Do hạt tram là hình vuông, nếu ghi tram tuyến tính tuyệt đối (trị số tram trên file là 50% thì trị số tram trên bản cũng là 50%) các ô vuông này chỉ vừa chạm đầu nhau. Nếu quan sát mắt thường, trong trường hợp này cả 4 ô tram phải cùng một tông màu xám, ô tram có kích thước hạt tram nhỏ không nhạt hơn ô tram có kích thước hạt tram lớn.
Nếu có khe hở trắng giữa các ô đen (diện tích vùng không bắt mực lớn hơn) tức là dot gain trên bản nhận giá trị âm (bay tram). Còn nếu các ô đen gối đầu nhau một phần (kích thước hạt tram lớn lên) tương ứng với việc gia tăng tầng thứ trên bản in (dot gain trên bản dương).
Lưu ý: Trong thực tế sản xuất, không nên ghi tram tuyến tính một cách tuyệt đối, ví dụ đối với bản Positive ứng với điểm tram 50% trên file thì trên bản sau khi hiện còn 48% là chấp nhận. Điều này để đảm bảo in theo công nghệ CTP giống như khi chúng ta sử dụng bản in truyền thống.
Hai panel thứ ba và thứ tư gồm các ô tram đường kẻ đứng và kẻ ngang cũng dùng để đánh giá máy ghi bản có đảm bảo ghi tram đối xứng và tuyến tính hay không :
Hình 9: Các ô kiểm tra chức năng đúp: ghi tram đối xứng và tuyến tính.
4 đường tram kẻ đứng và 4 đường tram kẻ ngang trong mỗi ô có bề rộng là 1, 2, 3 và 4 pixels. Mỗi đường kẻ tram gồm 2 phần: một nửa là dương bản (positive) một nửa là âm bản (negative).
Nếu việc ghi bản là tuyến tính và đảm bảo tính đối xứng thì các đường dương và âm cả hai ô tram có cùng kích thước bề rộng từng cặp. Nếu kích thước bề rộng đường tram các phần dương và âm khác nhau thì việc ghi là không tuyến tính. Việc ghi không đảm bảo tính đối xứng 2 chiều nếu bề rộng các đường kẻ tram từng cặp ở 2 ô tram khác nhau.
Panel thứ năm là ô chữ Times có kích thước font là 0.5, 1, 2 và 4 point được ghi ở 2 chế độ dương bản và âm bản để đánh giá độ phân giải bản kẽm cũng như đánh giá ghi tram không đối xứng và ghi tram không tuyến tính.

Hình 11: Các ô dùng kính lúp để quan sát tầng thứ vùng sáng và tối.
- Tầng thứ tram hình ảnh ghi trên bản vùng còn lại được kiểm tra, đánh giá trên 12 ô tram theo các trị số như sau:
Trong đó ô “solid ink” và “plate background” có thể dùng để hiệu chỉnh thiết bị đo.
Các ô tram hàng trên cho kết quả trị số tram khi có canh chỉnh hệ thống ghi bản. Các ô tram hàng dưới là trị số tram không có canh chỉnh thiết bị. Các số 20, 40, 50, 60, 80 là các trị số tram (%) của các ô tram.
Hình 12: Các ô tram dùng để kiểm tra bản bằng thiết bị đo.
Hình 13: Thông tin về tram ghi bản
Các ô cuối cùng của dải kiểm tra bản cho biết thông tin về việc
thực hiện bù sai lệch tram để đảm bảo tuyến tính ghi tram của thiết bị,
bù dot gain trên tờ in (linearization & process calibration) và
ngày, giờ ghi bản.
Hình 14: Thông tin ngày, giờ ghi bản
Trên ô hiển thị thông tin canh chỉnh thiết bị (calibration curve), đường chấm chấm nét màu trắng là dạng đường cong bù dot gain tờ in (process calibration) còn vùng màu đen cho biết hiệu ứng thay đổi tầng thứ trên bản. Trị số thay đổi tầng thứ xác định theo tỉ lệ ghi bên ô bên cạnh (scale).
2) Dữ liệu mẫu để kiểm tra chất lượng bản in CTP (test form)
Heidelberg cung cấp 2 dữ liệu mẫu kiểm tra chất lượng bản CTP dưới dạng file PDF trong CTP-test folder. Hai mẫu này có kích thước trang in là 880mm x 630mm và 650 mm x 450 mm.
Sử dụng các mẫu này chúng ta có thể đánh giá chất lượng bản in, chất lượng tờ in một cách tổng quát và đo đạc các thông số cần thiết để thiết lập các đường cong bù dot gain.

Hình 15: Các mẫu in chuẩn để đánh giá toàn diện chất lượng ghi bản và in trên giấy.
Trần Duy Hải - Nhà máy in Quân đội 2
KINH NGHIỆM ĐẦU TƯ VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CTP
Người viết: Trần Duy Hải 06/12/2007
Vài nét về Nhà máy in Quân đội 2 và quá trình đầu tư công nghệ CTP của Nhà máy.
Nhà máy in Quân đội 2 thuộc Tổng cục Chính trị là trung tâm in tổng hợp của quân đội ở phía Nam được củng cố và phát triển trên cơ sở Nhà máy in báo Quân đội nhân dân 2 trước đây, theo quyết định số 154/2005/QĐ-BQP ngày 10/10/2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của Nhà máy vẫn là in báo Quân đội nhân dân và các ấn phẩm phục vụ quốc phòng an ninh. Ngoài ra, với chức năng là một doanh nghiệp Nhà nước, Nhà máy in Quân đội 2 còn tham gia tích cực vào thị trường in, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trong lĩnh vực in sách, báo, tạp chí… Từ năm 2002, Nhà máy in Quân đội 2 đã được cấp chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000.
Khi đất nước mới mở cửa và chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà máy in Quân đội 2 đã sớm xác định đầu tư công nghệ và thiết bị tiên tiến, hiện đại hóa và đồng bộ dây chuyền sản xuất là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Cho đến ngày hôm nay khi đất nước đã chuyển sang thời kỳ hội nhập thì đầu tư đổi mới công nghệ vẫn là vấn đề thời sự đối với mọi ngành, mọi lĩnh vực.
Trong quá trình đầu tư phát triển, lựa chọn lĩnh vực nào để tạo đột phá, lựa chọn công nghệ nào là phù hợp và đảm bảo tính cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh… là những câu hỏi lớn trong định hướng đầu tư của Nhà máy ở mọi thời điểm.
Từ những năm đầu của thập kỉ 90, từ việc nhận thức đúng nhu cầu thị trường và xu thế phát triển của ngành in, Nhà máy in Quân đội 2 đã xác định khâu chế bản trước in đóng vai trò rất quan trọng, có tính đột phá trong việc nâng cao chất lượng in và rút ngắn thời gian sản xuất. Đây là lĩnh vực “kinh tế tri thức”, là công nghệ mũi nhọn của ngành in trên thế giới.
Năm 1996, Nhà máy in Quân đội 2 đầu tư hệ thống chế bản ghi phim tách màu LinoType Hell. Hệ thống chế bản này hoạt động rất có hiệu quả và khẳng định được uy tín của nhà máy trong lĩnh vực chế bản tại TP.HCM. Trong giai đoạn này Nhà máy đã xây dựng đội ngũ chế bản có trình độ và tay nghề cao (80% có trình độ kĩ sư tốt nghiệp khá và giỏi của Khoa Công nghệ in trường ĐHSPKT Thủ Đức), là nguồn nhân lực quyết định hiệu quả đầu tư và áp dụng công nghệ CTP sau này tại Nhà máy.
Năm 2003, Nhà máy in Quân đội 2 là đơn vị đầu tiên của cả nước đầu tư hệ thống CTP ghi bản nhiệt. Trong khu vực, các thị trường lớn như Ấn Độ, Trung Quốc… thời điểm này cũng chỉ rất ít nhà in có hệ thống CTP (cùng thời điểm này Nhà in Lê Quang Lộc đầu tư hệ thống ghi bản CTcP – ghi bản truyền thống). Mặc dù giá trị đầu tư hệ thống CTP ghi bản nhiệt cao hơn các công nghệ ghi bản khác nhưng Nhà máy in Quân đội 2 vẫn quyết định lựa chọn công nghệ này vì mục tiêu hàng đầu là chất lượng in các sản phẩm cao cấp, đưa đến cho khách hàng chất lượng dịch vụ cao hơn.
Điểm đặc biệt ở đây là từ chỗ áp dụng công nghệ CTP cho các sản phẩm in chất lượng cao (in tờ rời), chúng tôi càng nhận thấy những ưu điểm của công nghệ mới và đã áp dụng CTP rộng rãi cho việc in báo. Đền nay, Toàn bộ hơn một chục tờ báo in hằng ngày tại Nhà máy áp dụng công nghệ CTP. Các khách hàng rất hài lòng về chất lượng và thời gian giao hàng.
Năm 2005, Nhà máy in Quân đội 2 xây thêm 1 phân xưởng in cuộn hiện đại với 3 máy in cuộn 4 màu (1 máy in sách giáo khoa và 2 máy in báo). Hằng đêm, Nhà máy phải in trên 10 tờ báo khác nhau với số lượng bản kẽm phải đáp ứng trên 100 kẽm. Do vậy, đến tháng 9-2006, nhà máy đã đầu tư thêm 1 hệ thống CTP ghi bản nhiệt năng suất 30 bản/giờ – đó là hệ thống ghi bản Suprasetter của Heidelberg do J.R cung cấp để phục vụ kịp thời cho khâu in. Đây cũng là hệ thống thiết bị CTP thế hệ mới, thuộc nhóm thiết bị có năng suất cao đầu tiên có mặt tại Việt Nam.
Thực tế đã chứng minh quyết định lựa chọn công nghệ của Nhà máy in Quân đội 2 là đúng đắn (theo số liệu thống kê công bố trên trang điện tử www.printmediavn.com, đến cuối năm 2007 tại Việt Nam đã có 36 hệ thống CTP được lắp đặt, trong đó 28 hệ thống CTP ghi bản nhiệt).
1. Quan điểm của Nhà máy in QĐ 2 về đầu tư hệ thống CTP và thực tế áp dụng
- Đầu tư hệ thống CtP không giống như đầu tư một hệ thống CtF như trước đây: lấy doanh thu từ việc xuất phim dịch vụ để làm cơ sở tính toán hiệu quả (khả năng hoàn vốn). Đầu tư CTP là để phục vụ cho sản xuất tại Nhà máy.
Khi đầu tư hệ thống CTP ghi bản nhiệt đầu tiên vào năm 2003, chúng tôi có một cách tiếp cận khác để tính toán hiệu quả đầu tư: không tính toán trực tiếp một tấm bản CTP phải có giá bao nhiêu để hoàn vốn mà tính toán hiệu quả đầu tư hệ thống CTP tích hợp trong quá trình sản xuất chung của nhà máy. Trước hết, đầu tư CTP để nâng cao chất lượng sản phẩm in. Thứ hai là rút ngắn thời gian chế bản và chuẩn bị in sẽ giúp nhà máy phát huy hiệu quả các máy in tốt hơn nữa, có thể nhận thêm đơn hàng mới, đặc biệt phù hợp với xu thế các đơn hàng in hiện nay thường không lớn và lại yêu cầu chất lượng và thời gian giao hàng rất khắt khe. Thứ ba, công nghệ CTP giúp tiết kiệm nhân lực và vật tư (không chỉ là vật tư chế bản, mà còn tiết kiệm rất lớn về giấy và mực in). Như vậy, đầu tư CTP là gia tăng hiệu quả sản xuất bằng việc nâng cao chất lượng, tăng năng suất, tiết kiệm các chi phí.
Trong quá trình tìm hiểu và đầu tư công nghệ CTP, nhà máy in Quân đội 2 luôn ở tư thế chủ động, biết mình cần gì và luôn đặt yêu cầu cụ thể, thiết thực để xem các nhà cung cấp đáp ứng được đến đâu, tính năng kỹ thuật và khả năng thực sự của các hệ thống thiết bị hoạt động trong thực tế như thế nào (không thể tin 100% lời quảng cáo có cánh của người đi bán được).
Về việc lựa chọn công nghệ ghi bản CTP, chúng tôi xác định công nghệ ghi bản nhiệt là phù hợp nhất với điều kiện và mục tiêu đầu tư của nhà máy chúng tôi, có thể tạo nên sự đột phá về chất lượng in các sản phẩm cao cấp do xuất phát từ chính nguyên lý của bản in nhạy nhiệt (bản digital thực sự) và khả năng áp dụng những kỹ thuật tiên tiến nhất trong lĩnh vực chế bản như về tram in (FM, Hybrid) trong thực tế sản xuất. Ngoài ra, qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy công nghệ ghi bản nhiệt vận hành, bảo trì đơn giản, ít tốn kém thời gian và sức lực người lao động. Kiểm soát chất lượng bản in cũng dễ dàng hơn, chất lượng bản in làm ra ổn định, ô nhiễm môi trường ít hơn…
- Việc đầu tư thiết bị & công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ CTP, chính là thực hiện chính sách chất lượng, thực hiện cam kết của chúng tôi khi áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000: hướng tới khách hàng, không ngừng cải tiến hệ thống quản lý chất lượng để phục vụ khách hàng tốt hơn.
Có nhiều sản phẩm là các báo in tại Nhà máy trong hợp đồng in không yêu cầu sử dụng công nghệ CTP, thậm chí chỉ in giấy can và ra phim tách màu để bình và phơi bản PS (nhằm tiết kiệm chi phí). Tuy nhiên, Nhà máy vẫn chủ động trao đổi với khách hàng chuyển sang sử dụng công nghệ CTP nếu điều kiện kỹ thuật cho phép, chi phí chế bản và in cho khách hàng không phải trả thêm.
Khi chuyển sang CTP khách hàng thấy chất lượng các sản phẩm cải thiện rõ rệt, thời gian sản xuất được rút ngắn, khách hàng đỡ vất vả hơn trong quá trình theo dõi, giám sát chất lượng tại nhà in. Báo Mua & Bán trước đây khách hàng in giấy can sau đó bình bản và chuyển sup-po tới nhà in vừa tốn nhân lực, thời gian, chất lượng không đảm bảo và không ổn định, nhiều khi chuyển tới nhà in phát hiện sup-po không đảm bảo chất lượng phải đưa về tòa soạn làm lại. Nhà máy đã chủ động tư vấn và giúp Tòa soạn truyền dữ liệu tới Nhà máy và áp dụng công nghệ CTP để chế bản và in giúp tiết kiệm rất nhiều chi phí và mang lại hiệu quả cho chính tòa soạn.
Chất lượng cao hơn, thời gian giao hàng rút ngắn tiếp tục củng cố uy tín của Nhà máy, giúp Nhà máy nâng cao hiệu quả sản xuất.
Từ năm 2003 – 2005, mặc dù mới chỉ có thêm một hệ thống ghi bản CTP năng suất 13 bản/giờ và các máy in hiện có (2 máy tờ rời 4 màu, 2 máy tờ rời 2 màu, 1 máy in cuộn 4 màu) nhưng sản lượng, doanh thu và hiệu quả của Nhà máy đều tăng vượt xa dự kiến kế hoạch. Hệ thống CTP hoạt động hiệu quả nên sản lượng trang in (13x19) năm 2005 tăng trên 160 % so với năm 2004 (năm 2004: 11,1 tỉ trang in, năm 2005: 18 tỉ trang in ), doanh thu và lợi nhuận tương ứng cũng tăng hơn (doanh thu tăng trên 15 tỉ đồng).
Đến nay, với việc đầu tư thêm 1 hệ thống chế bản CTP của Heidelberg - Suprasetter, năng suất ghi bản CTP của Nhà máy đã đạt gần 50 bản/giờ. Toàn bộ các sản phẩm chế bản và in tại Nhà máy sử dụng công nghệ CTP với kĩ thuật tram in tiên tiến Hybrid (trừ SGK bắt buộc phải sử dụng phim chế bản của NXBGD). Về ứng dụng CIP4, từ năm 2004 Nhà máy in Quân đội 2 đã áp dụng cho 1 máy in tờ rời (máy in Mitsubishi đầu tư năm 2003). Việc áp dụng CIP4 tiếp tục được Nhà máy quan tâm khi đầu tư các thiết bị mới. Hằng tháng, số lượng kẽm CTP phải sử dụng cho sản xuất tại nhà máy trên 6000 bản, có tháng lên tới 7000 bản. Sản lượng trang in của nhà máy năm 2006 đạt 25,75 tỉ trang 13x19 (doanh số đạt trên 113 tỉ đồng). Năm 2007 dự kiến đạt trên 26,5 tỉ trang in 13x19, doanh thu 130 tỉ đồng.
Ngoài đáp ứng cho sản xuất tại Nhà máy, chúng tôi còn ghi gia công cho một số nhà in khác trên địa bàn cần có bản in CTP để in các sản phẩm yêu cầu chất lượng cao.
Về mặt tiết kiệm vật tư: do áp dụng công nghệ, trong đó có vai trò của việc sử dụng tram in Hybrid khi chế bản CTP, với cùng sản lượng trang in so với năm 2007 thống kê lượng mực sử dụng để in trong năm 2007 ít hơn rất nhiều, tiết kiệm hàng trăm triệu đồng so với năm trước.
Riêng hệ thống CTP ghi bản nhiệt Suprasetter do công ty J.R cung cấp, chúng tôi rất hài lòng vì hiệu quả mà hệ thống này mang lại. Những điểm nổi bật :
• • Thời gian lắp đặt và đưa vào vận hành rất ngắn, hoàn toàn do các kĩ sư nội của J.R đảm nhiệm (tất nhiên trước đó chúng tôi cũng đã có kinh nghiệm vận hành công nghệ CTP do hãng Screen cung cấp).
• • Hai hệ thống ghi bản CTP (PTR của Screen và Suprasetter của Heidelberg) kết nối hoàn toàn với nhau. Hiện tại, chúng tôi sử dụng phần mềm bình trang Prinect Signastation và phần mềm RIP Metadimension của Heidelberg tạo dữ liệu điều khiển ghi bản trên 2 máy. Cấu hình hệ thống, đặc biệt là sử dụng dữ liệu Tif-B để điều khiển các máy ghi bản, do công ty J.R tư vấn và hiện thực hóa giúp cho việc vận hành hệ thống dễ dàng, linh hoạt và hiệu quả.
• • Phần mềm bình trang điện tử Prinect Signastation rất dễ sử dụng và cực kỳ linh hoạt, mạnh mẽ. Các tính năng đặc biệt như Web growth hỗ trợ nâng cao chất lượng và giúp tiết kiệm vật tư in báo, khả năng hỗ trợ CIP4 cao hơn các phần mềm thông thường (khi kết nối máy in, dữ liệu CIP4 không chỉ điều khiển mở mực trên máy in theo mật độ phân bố tram in mà còn có thông tin về độ dày giấy nếu như sử dụng máy in Heidelberg)
• • Thư viện tram in có sẵn trên RIP rất phong phú, bao gồm những giải thuật tram nổi tiếng của Heidelberg giúp người vận hành lựa chọn dễ dàng, phù hợp yêu cầu tách màu chế bản và giảm hiện tượng moirés, rosette. Đặc biệt kỹ thuật tram Hybrid của Heidelberg với kích thước điểm tram thay đổi đáp ứng mọi yêu cầu chế bản trong thực tế. Hiện nay, các sản phẩm in tại Nhà máy hầu hết sử dụng kĩ thuật tram tiên tiến Hybrid của Heidelberg (cả tạp chí cao cấp in tờ rời và báo in trên máy in cuộn).
• • Hệ thống tài liệu hướng dẫn vận hành của Heidelberg rất đầy đủ. Nhiều công việc trước đây chỉ có kỹ sư của nhà cung cấp thiết bị mới biết và thực hiện, đến nay Heidelberg đã chuyển giao cho người vận hành (ví dụ hướng dẫn kiểm tra, đánh giá chất lượng và thiết lập các thông số máy ghi cho các loại bản CTP khác nhau…). Điều này phản ánh Heidelberg đã thực hiện cam kết là nhà cung cấp giải pháp chứ không chỉ dừng ở việc bán thiết bị. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với các nhà in.
• • Hệ thống chế bản của Heidelberg có một thư viện các CTP-tools – công cụ đảm bảo chất lượng bản in – giúp kiểm tra đánh giá chất lượng các loại bản in CTP, hiện tại không phải hệ thống nào CTP nào cũng có. Đây là sự trợ giúp rất có ý nghĩa đối với các nhà in trong thực tế sản xuất.
Xuất phát từ hiệu quả trong thực tế áp dụng công nghệ CTP và điều kiện sản xuất tại Nhà máy, chúng tôi đã quyết định loại hệ thống ghi phim (công nghệ CtF) khỏi dây chuyền chế bản. Chế bản điện tử tại Nhà máy in Quân đội 2 từ năm 2008 chỉ còn công nghệ CTP. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ CTP, ổn định sản xuất, chúng tôi đã có chủ trương đầu năm 2008 sẽ nâng cấp tiếp hệ thống chế bản CTP hiện có.
- Về mặt kỹ thuật, đầu tư hệ thống CtP có nghĩa chuyển toàn bộ công đoạn chế bản sang kỹ thuật số. Đây là sự thay đổi lớn về công nghệ sản xuất. Do vậy, toàn bộ hệ thống quản lý và tổ chức sản xuất cần có sự điều chỉnh, vận hành phù hợp. Nhân lực chế bản cần có sự đầu tư tương xứng.
Ở Nhà máy in quân đội 2, ban Giám đốc yêu cầu các cán bộ, nhân viên chuyên môn các phòng nghiệp vụ phải nắm được quy trình và những khái niệm cơ bản nhất về công nghệ, phương pháp in để nâng cao hiệu quả công tác. Nhà máy mở những lớp ngắn hạn tại chỗ để bồi dưỡng kiến thức, thậm chí Giám đốc là người trực tiếp lên lớp.
Khi đầu tư và áp dụng công nghệ CTP, chúng tôi tổ chức các buổi hội thảo về công nghệ, mời chuyên gia công ty J.R tới giới thiệu chi tiết những tính năng mới, những kinh nghiệm và hướng dẫn vận hành không chỉ cho PX chế bản, mà cả ban Giám đốc, phòng kế hoạch, phòng vật tư, phòng kĩ thuật, các phân xưởng in, hoàn thiện sản phẩm cũng tham dự. Những chuyên đề hẹp hơn chỉ liên quan đến sản xuất thì tổ chức phổ biến kiến thức và kinh nghiệm cho các công nhân tại các phân xưởng. Những thông tin công nghệ, kĩ thuật cần thiết cũng thường xuyên được truyền đạt tới đại diện khách hàng để có sự hợp tác tốt nhất.
Trong sản xuất, khi đã chuyển sang công nghệ CTP thì không chỉ các nhân viên chế bản mà các công nhân đứng máy in cũng phải rất am hiểu về bản in CTP. Sự gắn kết, hợp tác giữa 2 bộ phận này phải chặt chẽ hơn trước rất nhiều để áp dụng có hiệu quả những tính năng kĩ thuật mới và nhận biết, xử lý những sự cố xảy ra.
Nhà máy in QĐ2 cũng áp dụng các tiêu chuẩn kĩ thuật ISO 12647 và tham khảo một số tiêu chuẩn khác như SWOP, SNAP, PANPA… để tiêu chuẩn hóa các quá trình sản xuất phù hợp điều kiện thực tế của nhà máy.
Để áp dụng có hiệu quả công nghệ CtP, đội ngũ chế bản là lực lượng trực tiếp và quan trọng nhất. Từ lúc còn vận hành công nghệ CtF, nhân lực chế bản điện tử của nhà máy đã được chuẩn bị khá tốt để sẵn sàng chuyển sang làm chủ công nghệ CtP. Các kĩ sư công nghệ là lực lượng nòng cốt trong quản lý và sản xuất của phân xưởng chế bản. Nhà máy tạo mọi điều kiện để đội ngũ này nắm vững các kiến thức chế bản nói chung và làm chủ hệ thống thiết bị chế bản hiện có (năm 1990, khi internet mới có tại Việt Nam, nhà máy đã cho lắp đặt ngay để đội ngũ chế bản tiếp cận và sử dụng interner phục vụ cho học tập và sản xuất…). Phân xưởng chế bản luôn chủ động tự tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chế bản. Ngay từ khi vận hành hệ thống chế bản ghi phim, đội ngũ chế bản Nhà in Quân đội 2 đã có một thời gian dài sử dụng một số phần mềm bình trang điện tử (bình file PDF) để tách màu ra phim nguyên tờ in khổ lớn (đưa thẳng sang phơi bản, không phải bình phim thủ công). Khi chuyển sang công nghệ CTP, phần lớn nhân viên chế bản điện tử xuất phát từ thợ sắp chữ, tách màu ghi phim, chưa được trang bị kiến thức về bình trang và phơi bản. Các nhân viên bình phim và phơi bản lại không biết sử dụng máy tính và chế bản điện tử. Nhà máy in Quân đội 2 đã tổ chức lại sản xuất ở khâu trước in thành một khối thống nhất để các nhân viên tự bồi dưỡng, truyền đạt bổ sung cho nhau kiến thức và kinh nghiệm, phát huy được ưu thế của từng bộ phận riêng lẻ trước đây cho công việc chung đạt hiệu quả tốt hơn.
2. Một vài kiến nghị về vấn đề hỗ trợ kỹ thuật từ các nhà cung cấp
Trong lĩnh vực chế bản, các thiết bị công nghệ thuộc hàng cao cấp, công nghệ thay đổi liên tục. Việc làm chủ thiết bị trong quá trình vận hành, bảo trì, sửa chữa đối với các nhà in là rất khó khăn. Do vậy, vấn đề hỗ trợ kỹ thuật, bảo trì, bảo hành hệ thống từ phía nhà cung cấp là cực kỳ quan trọng. Việc hợp tác, hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực chế bản hiện nay của các nhà cung cấp cũng còn nhiều vấn đề cần được các nhà cung cấp quan tâm hơn nữa.
Thời gian huấn luyện, đào tạo như thỏa thuận trong các hợp đồng hiện nay là chưa đủ. Mặc dù vẫn ký biên bản xác nhận đã hoàn thành khóa học, nhưng thực tế nhân lực chế bản nhà in vẫn chưa làm chủ được những vấn đề cơ bản nhất trong vận hành. Nhà cung cấp cần có khảo sát, đánh giá lại công tác huấn luyện và có kế hoạch huấn luyện bổ sung.
Có những thiết bị hoặc tính năng kĩ thuật chọn thêm (option) của hệ thống trong thực tế không đưa vào sử dụng được có một phần từ việc huấn luyện đào tạo chưa kỹ.
Hiệu quả hỗ trợ kỹ thuật trong giai đoạn hậu mãi, nhất là khi xử lý các sự cố xảy ra đôi khi chưa đạt được như mong muốn. Có nhiều trường hợp lỗi từ phía người sử dụng, vận hành nhưng phần lớn các chuyên gia kĩ thuật trong lĩnh vực chế bản của nhà cung cấp cũng còn thiếu những kiến thức và kinh nghiệm thực tế, nhất là về khâu in, nên hiệu quả hỗ trợ kỹ thuật chắc chắn bị hạn chế. Nếu có sự hợp tác tốt giữa hai bên, đặc biệt là có được sự tư vấn, hướng dẫn kĩ càng, chu đáo từ phía các chuyên gia của nhà cung cấp thì sẽ cải thiện được hiệu quả cho công việc này. Các nhà cung cấp nên giúp khách hàng của mình chủ động xử lý được các sự cố kỹ thuật nhiều hơn.
Việc nâng cấp các phần mềm hệ thống để khắc phục các lỗi nội tại, nâng cao năng lực sản xuất trong điều kiện công nghệ thay đổi như hiện nay là rất quan trọng, vấn đề này các nhà in cũng cần có sự chủ động tư vấn, giúp đỡ kịp thời của nhà cung cấp.

in ấn






